Làm đám cưới mà không đăng ký kết hôn có vi phạm pháp luật không ?
Lễ cưới (hay hôn lễ) là một phong tục văn hóa trong hôn nhân nhằm thông báo rộng rãi về sự chấp nhận và chứng kiến của gia đình, xã hội về cuộc hôn nhân của một cặp đôi, là hình thức liên hoan, mừng hạnh phúc cô dâu chú rể và hai gia đình. Lễ cưới được hiểu là một nghi lễ, và thường kết hợp với một tiệc cưới để trở thành đám cưới hoặc lễ thành hôn. Vậy, tổ chức lễ cưới mà chưa đăng ký kế hôn có vi phạm pháp luật không?
Khoản 5 điều 3 Luật Hôn nhân và gia
đình 2014 giải thích về kết hôn như sau: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập
quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và
đăng ký kết hôn”
Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
quy định về việc đăng ký kết hôn như sau: “Việc kết hôn phải được đăng ký
và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và
pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản
này thì không có giá trị pháp lý”. Vậy, việc kết hôn không đăng ký kết hôn thì
không được pháp luật công nhận và không có giá trị pháp lý, hai bên nam nữ
không có nghĩa vụ vợ chồng với nhau.
Việc tổ chức đám cưới, chung sống như
vợ chồng mà không đăng ký kết hôn không bị pháp luật cấm, tuy nhiên việc tổ
chức đám cưới và sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn không được pháp
luật công nhận, nói cách khác, về mặt pháp lý, hai bên nam nữ không phải vợ
chồng của nhau, họ không có quyền và nghĩa vụ vợ chồng với nhau.
Khoản 2 điều 5 quy định các hành vi bị
cấm để bảo vệ chế độ hôn nhân gia đình, trong đó bảo gồm việc người đang có vợ,
có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có
vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có
chồng, có vợ; kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng
máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi
với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với
con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng
của chồng. Tức là khi việc sống như vợ chồng khi một bên đang có vợ hoặc chồng,
một bên chưa có vợ/chồng mà biết người kia có vợ hoặc chồng là vi phạm pháp
luật, sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý; Tương tự, việc sống như vợ chồng với
những người có họ trong phạm vi ba đời, cha/mẹ-con nuôi, cha/mẹ chồng/vợ- con
dâu/con rể, cha dượng/mẹ kế-con riêng cũng vi phạm pháp luật, phải chịu trách
nhiệm pháp lý.
Như vậy, việc tổ chức đám cưới mà không
đăng ký kết hôn là hình chung sống như vợ chồng, không được pháp luật thừa nhận
và bảo vệ. Pháp luật cũng không cấm việc chung sống như vợ chồng nếu không
thuộc những trường hợp đã nêu trên.
Tóm lại, căn cứ để pháp luật công nhận một cuộc hôn nhân hợp pháp là dựa vào tờ giấy chứng nhận kết hôn. Việc tổ chức một đám cưới linh đình, đông vui chỉ là nơi để cặp vợ chồng công bố với mọi người về việc họ chính thức quyết định về chung một nhà và cùng nhau xây dựng tổ ấm, hoàn toàn không có chút ràng buộc pháp lý nào.
Post a Comment